- Cấu trúc đề thi IELTS (Academic & General)
- Cấu trúc đề thi VSTEP (B1-B2-C1)
- Cấu trúc đề thi PET (B1-B2) Cambridge
- Cấu trúc đề thi KET (A2-B1) Cambridge
- Cấu trúc đề thi TOEIC Speaking & Writing
- Cấu trúc đề thi TOEIC Listening & Reading
- Kinh nghiệm làm bài thi IELTS
- Kinh nghiệm làm bài thi PET (B1)
- Kinh nghiệm làm bài thi TOEIC Speaking & Writing
- Kinh nghiệm làm bài thi TOEIC Listening & Reading
17 NHÀ KHOA HỌC NỮ NỔI TIẾNG GIÀNH ĐƯỢC GIẢI NOBEL
1. Marie Curie: Nobel Vật lý – Năm 1903 và giải Nobel Hóa học –Năm 1911
Marie Curie là nhà khoa học nữ đầu tiên nhận giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau. Năm 1903 bà được nhận giải Nobel vật lý cùng với chồng mình là Pierre Curie và nhà khoa học Henri Becquerel cho các nghiên cứu về bức xạ. Bà cũng là người phụ nữ đầu tiên nhận giải này. Đến năm 1911, bà nhận giải Nobel hóa học cho công trình khám phá ra hai nguyên tố hóa học radium và polonium.
2. Nhà khoa học nữ Irène Joliot-Curie: Nobel Hóa học – Năm 1935
Irène Joliot-Curie là con gái của cặp vợ chồng nhà khoa học nổi tiếng Pierre Curie và Marie Currie. Bà cùng với chồng mình là Frédéric Joliot-Curie đã nghiên cứu được công trình về sự phát xạ nhân tạo và được trao giải Nobel hóa học năm 1935 nhờ công trình này.
3. Gerty Theresa Cori: Nobel Y học – Năm 1947
Gerty Theresa Cori là nhà khoa học nữ đầu tiên đoạt giải Nobel. Năm 1929, Gerty Theresa Cori cùng với chồng mình là Carl Ferdinand Cori cùng đề xuất lý thuyết mang tên chu kỳ Cori, giải thích chuyển động của năng lượng trong cơ thể: từ mô cơ tới gan rồi trở lại mô, cơ. Vào năm 1947, Gerty Theresa Cori cùng với chồng mình Carl Ferdinand Cori, bà được trao giải Nobel y học cho công trình khám phá cách mà glycogen tan ra và tái tổng hợp để dùng như một nguồn năng lượng trong cơ thể.
4. Maria Goeppert-Mayer: Nobel Vật lý – Năm 1963
Maria Goeppert-Mayer nhận giải Nobel Vật lý cùng Johannes Hans Daniel Jensen nhờ đề ra lý thuyết cấu trúc hạt nhân dạng lớp. Bà cùng với Marie Curie là hai nhà khoa học nữ duy nhất đến nay đoạt giải Nobel vật lý.
5. Dorothy Crowfoot Hodgkin: Nobel Hóa học – Năm 1964
Dorothy Crowfoot Hodgkin là nhà hóa học giành giải Nobel hóa học năm 1964 nhờ công trình xác định công thức cấu tạo của các chất hoạt động sinh học bằng kỹ thuật tinh thể học tia X. Bà là một trong hai nhà hóa học nữ giành giải độc lập và là một trong bốn nhà hóa học nữ giành giải thưởng.
6. Rosalyn Sussman Yalow: Nobel Y học – Năm 1977
Rosalyn Sussman Yalow đã đoạt Nobel y học năm 1977 cùng với Roger Guillemin và Andrew Schally. Nữ nhà khoa học nổi tiếng với công trình phát triển kỹ thuật radioimmunoassay (RIA) – kỹ thuật xét nghiệm miễn nhiễm tia X: sử dụng chất phóng xạ đánh dấu cho phép đo lường các lượng nhỏ các chất sinh học khác nhau trong máu người cũng như vô số dung dịch hòa tan khác. Rosalyn Sussman Yalow là người phụ nữ thứ 2 được trao giải Nobel Y học sau Gerty Cori.
7. Barbara McClintock: Nobel Y học – Năm 1983
Barbara McClintock nhận bằng Tiến sĩ thực vật học từ Đại học Cornell vào năm 1927, cũng tại đại học này, bà trở thành nhà khoa học nữ dẫn đầu trong nghiên cứu di truyền học tế bào của bắp. McClintock là một trong những nhà khoa học xuất sắc nhất thế giới trong lĩnh vực di truyền học tế bào. Bà giành giải Nobel y học cho nghiên cứu về các yếu tố di truyền và các quy định về di truyền.
8. Rita Levi-Montalcini: Nobel Y học – Năm 1986
Rita Levi-Montalcini cùng với đồng nghiệp Stanley Cohen đã đoạt giải Nobel Y học vào năm 1986. Tháng 9/1946, Levi-Montalcini đến công tác tại trường Đại học Washington, bà nghiên cứu công trình quan trọng nhất của mình tại đây: từ các quan sát một số mô ung thư – loại mô gây ra tốc độ tăng trưởng tế bào thần kinh cực nhanh, bà đã xác định được nhân tố tăng trưởng thần kinh (NGF) trong năm 1952.
9. Gertrude B. Elion: Nobel Y học – Năm 1988
Gertrude B. Elion được trao giải Nobel y học vào năm 1988 cùng với George Hitchings và Sir James Black cho việc phát triển các loại thuốc mới ung thư máu, bệnh gút, bệnh sốt rét. Các phương pháp nghiên cứu của bà theo kỹ thuật mới, là phương pháp mà sau này dẫn tới việc tạo ra thuốc AZT điều trị HIV đầu tiên trên thế giới.
10. Christiane Nüsslein-Volhard: Nobel Y học – Năm 1995
Christiane Nüsslein-Volhard đoạt giải Nobel Y học năm 1995 cùng với Eric Wieschaus và Edward Lewis cho nghiên cứu về sự kiểm soát di truyền trong quá trình hình thành phôi thai. Trong phòng thí nghiệm, bà nghiên cứu về các cơ cấu phân tử của phôi thai ruồi giấm, cũng như tiếp tục khám phá loài cá như hình mẫu cho việc nghiên cứu những đặc điểm cụ thể của xương sống.
11. Linda B. Buck: Nobel Y học – Năm 2004
Linda B. Buck là nhà sinh học người Mỹ. Bà đoạt giải Nobel Y học cùng với Richard Axel cho công trình nghiên cứu cơ quan thụ cảm khứu giác và các gen kiểm soát khứu giác trong động vật có vú vào năm 2004. Cũng vài năm này, bà được đưa vào Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia Mỹ (United States National Academy of Sciences).
12. Françoise Barré-Sinoussi: Nobel Y học – Năm 2008
Françoise Barré-Sinoussi nổi tiếng với công trình khám phá ra virus HIV vào năm 1932. Từ năm 1988 bà chuyển sang nghiên cứu vaccin ngừa HIV tại Viện Pasteur Paris. Bà được trao giải Nobel Y học năm 2008 cùng Luc Montagnier và Harald zur Hausen do công tìm ra virus gây ”căn bệnh thế kỷ”.
13. Nhà khoa học nữ giành giải Nobel: Elizabeth Blackburn: Nobel Y học – Năm 2009
Elizabeth Blackburn giành giải Nobel Y học vào năm 2009 nhờ nghiên cứu về các telomere. Telomere là một cấu trúc ở phần cuối của nhiễm sắc thể, để bảo vệ các nhiễm sắc thể. Bà cũng là một trong những người đầu tiên phát hiện telomerase, một enzym giữ cho các nhiễm sắc thể không bị lão hóa, telomerase có thể kéo dài tuổi thanh xuân của chúng ta và chống lại bệnh ung thư.
14. Carol W. Greider: Nobel Y học – Năm 2009
Carol W. Greider là một nhà sinh học phân tử tại trường Đại học Johns Hopkins – Mỹ. Bà là người đồng phát hiện ra enzym telomerase năm 1984 khi làm việc dưới sự hướng dẫn của Elizabeth Blackburn ở Đại học California – Mỹ. Sau này, bà cùng Elizabeth Blackburn đạt giải Nobel Y học năm 2009.
15. Ada E. Yonath: Nobel Hóa học – Năm 2009
Ada E. Yonath là một nhà tinh thể học người Israel, bà được biết đến nhờ các công trình nghiên cứu về cấu trúc và chức năng của ribosome. Năm 2009, bà nhận giải Nobel Hóa học năm 2009 cùng với Venkatraman Ramakrishnan và Thomas A. Steitz cho nghiên cứu ứng dụng thực tế về cơ cấu và chức năng của ribosome.
16. May-Britt Moser: Nobel Y học – Năm 2014
May-Britt Moser là một nhà tâm lý học, nhà thần kinh học người Na Uy và là giám đốc sáng lập Viện Kavli tại Đại học Khoa học Công nghệ Na Uy. Vào năm 2014, May-Britt Moser cùng John O’Keefe và Edvard Moser giành giải Nobel Y học khi khám phá các tế bào tạo thành hệ thống định vị trong não.
17. Tu Youyou: Noel y học – Năm 2015
Tu Youyou là một nhà khoa học nữ nghiên cứu về y học và y hóa Trung Quốc. Bà được biết tới nhiều nhất qua công trình chiết xuất thanh hao tố (artemisinin) từ cây thanh hao hoa vàng phục vụ việc chữa trị sốt rét. Nghiên cứu của bà là một thành tựu mang tính đột phá, giúp nâng cao chất lượng sức khỏe cho hàng triệu người ở các quốc gia đang phát triển tại Nam Á, châu Phi và Nam Mỹ. Nhờ những đóng góp to lớn của mình, Tu Youyou được trao giải Nobel Y học năm 2015 cùng với Satoshi Omura và William Campbell.
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA NHỮNG NHÀ KHOA HỌC NỮ VÔ CÙNG TO LỚN ĐỐI VỚI NHÂN LOẠI
Tính đến thời điểm hiện tại, trên toàn thế giới có 17 nhà khoa học nữ giành được giải Nobel. Mặc dù tỷ lệ nhà khoa học nữ nhận giải Nobel rất nhỏ, nhưng họ đã có những đóng góp to lớn trong nhiều lĩnh vực khoa học cũng như chăm sóc sức khỏe con người.
Hẹn gặp lại các bạn trong các bài chia sẻ tiếp theo từ Anh ngữ Thiên Ân!
(Nguồn: Anh ngữ Thiên Ân – Những Nhà Khoa Học Nữ Nổi Tiếng Giành Được Giải Nobel – Vui lòng trích dẫn nguồn khi copy bài viết sang website khác)